Chủ Nhật, 15 tháng 12, 2013

Tu chân đồ

Nhận thức về Tu Chân Đồ
1/ Thân thể con người có 360 đốt xương, 8 vạn 4 ngàn lỗ chân lông, sau có ba cửa tam quan là: Vĩ Lư, Giáp Tích, Ngọc Chẩm. Vĩ Lư tại đầu dưới cùng của xương sống, cửa quan này có thể thông với Khí trong Thận. Từ cửa quan này xuất phát một đường Tủy, gọi là Tào Khê, cũng gọi là Hoàng Hà, là đường thăng Dương. Thẳng đến chỗ hai xương vai hẹp lại là Giáp Tích. Lên tiếp tới Não là Ngọc Chẩm. Đó là hậu tam quan. Trước có ba đan điền là: Nê Hoàn, Thổ Phủ, Ngọc Trì. Nê Hoàn là Thượng Đan Điền, vuông 1 tấc 2 phân, trong có một khiếu, là chỗ tàng Thần. Từ Mi Tâm đi vào chính giữa Thiên Môn, vào 1 tấc là Minh Đường, vào thêm 1 tấc là Động Phòng, vào thêm 1 tấc nữa là Nê Hoàn. Dưới Mi Tâm là sống mũi, cũng gọi là Lôi Đình Phủ. Từ Kim Kiều đến miệng có hai khiếu thông hầu, gọi là Thước Kiều. Hầu là xương cổ, là nơi ra vào của Nội Ngoại Khí. Sau có xương sụn mềm gọi là Yết (cổ họng), là chỗ tiếp nhận đồ ăn uống, nó thông với Ruột (tràng) và Dạ dày (vị). Hầu có 12 đốt xương, gọi là Trùng Lâu. Thẳng xuống là Phế khiếu, cho đến tận Tâm, phía trên Tâm có xương, gọi là Cửu Vĩ. Phía dưới Tâm có huyệt, gọi là Giáng Cung, là chỗ Long Hổ giao hội. Thẳng tiếp xuống 3 tấc 6 phân, là Thổ Phủ (nồi đất), là Huỳnh Đình huyệt, là Trung Đan Điền.
Tâm Thận cách nhau 8 tấc 4 phân, người có 8 vạn 4 ngàn lỗ chân lông, ứng với khoảng cách giữa trời và đất là 8 vạn 4 ngàn dặm. Người có 360 đốt xương, ứng với Khí Dịch thăng giáng trong trời đất một vòng là 360 ngày.
2/ Trời có Cửu Cung, đất có Cửu Châu. Hạ Đan Điền của người có Cửu Khiếu, đó là hình Cửu Châu của đất. Nê Hoàn cung có chín huyệt, tiếp với Cửu Cung của trời. Xương đầu có tám miếng, ứng với tám phương. Có tên là Di La Thiên Ngọc Đế Cung, cũng gọi là Thuần Dương Thiên Cung. Trong có một huyệt, gọi là Huyền Linh (Khung) Chủ, cũng gọi là Nguyên Thần Cung. Dưới có lưỡi (thiệt), trong lưỡi có Kim Tỏa Quan, đối diện với lưỡi, gọi là Thước Kiều. Huyệt Nhân Trung dưới mũi (Tị), là đối diện với Kim Tỏa Quan, trong nó có Đốc Mạch, đó là căn bản của con người, trong Thượng Cửu Khiếu, có một cái là Tính Căn Ngọc Tuyền, cũng gọi là Hoa Trì. Dưới lưỡi có bốn khiếu, hai khiếu thông Tâm, sinh Dịch. Hai khiếu thông Thận, sinh Khí. Thần Thất Nê Hoàn Cửu Khiếu là Thiên Hoàng Chi Cung. Trong có một huyệt, hình như con gà (Kê Tử), lớn như Bồng Đài, chính là Côn Luân. Thích gọi là Tu Di Sơn. Người tu chân không thể không biết được.
“Huỳnh Đình nội cảnh kinh” nói: “Cửu u minh nguyệt động không vô”, chỉ ra trên đầu có Cửu Cung.
“Huỳnh Đình nội cảnh kinh” nói: “Cửu nguyên chi sơn hà đình đình, Trung hữu chân nhân khả sử lệnh” cũng nói: “Nê Hoàn cửu chân giai hữu phòng, Phương viên nhất thốn xứ thử trung”, trên đầu có Cửu Chân, mỗi cái chiếm một tấc. Trong đồ hình có câu: “Bất diệt chi đạo, tồn tư Nê Hoàn cửu chân”, cũng nói: “Não hữu cửu ban, phòng hữu nhất thốn”. Cửu Chân trong hình là Cao Chân, Thiên Chân, Thần Chân, Thượng Chân, Huyền Chân, Tiên Chân, Hư Chân, Thái Chân, Chí Chân.
“Động chân Thái thượng đạo quân nguyên đan thượng kinh” nói: “Trong đầu có Cửu Cung: Từ lưỡng mi đi vào một tấc là Minh Đường Cung, vào hai tấc là Động Phòng Cung, vào ba tấc là Đan Điền Cung (Nê Hoàn Cung), vào bốn tấc là Lưu Châu Cung, vào năm tấc là Ngọc Đế Cung. Trên Minh Đường Cung một tấc là Thiên Đình Cung, trên Động Phòng Cung một tấc là Cực Chân Cung, trên Đan Điền Cung một tấc là Huyền Đan Cung, trên Lưu Châu Cung một tấc là Thái Hoàng Cung.”
3/ Tâm: Thần như Chu Tước, hình như nhụy sen treo ngược, có thể biến Thủy thành Huyết. Thần Tâm tên là Đan Nguyên, tự Thủ Linh, nặng 12 lạng, nằm dưới Cửu Vĩ một tấc, màu sắc như màu đỏ của vải, trong có 7 lỗ 3 sợi (thất khổng tam mao). Bậc Thượng Trí, lỗ tim thông sáng. Người Trung Trí, 5 lỗ tâm huyệt thông khí. Kẻ Hạ Trí không có lỗ (hình như đúng là có 3 lỗ), khí minh không thông. Tâm là con của Gan, là mẹ của Tì, lưỡi là quan của nó. Khiếu thông với tai, tai trái là Bính, tai phải là Đinh. Dịch là mồ hôi, Thận tà mà nhập Tâm thì mồ hôi nhiều, vị của nó ngọt, Tâm hợp với phủ của Tiểu Trường.
“Huỳnh Đình kinh” nói: “Tâm thần Đan Nguyên tự Thủ Linh”. Tâm thuộc Hỏa, sắc đỏ, trong ngũ hành là Chu Tước ở phương Nam, tàng Thần, chủ Huyết Mạch.
4/ Giáng Cung là chỗ Long Hổ giao hội. Đi xuống 3 tấc 6 phân là Thổ Phủ, Huỳnh Đình huyệt, Trung Đan Điền. Trái có Minh Đường, phải có Động Phòng. Thần Vô Anh ở trái, là Gan. Thần Bạch Nguyên ở phải, là Phế. Giữa còn 1 tấc 2 phân, là nơi tàng Khí, là Đỉnh luyện Khí. Thẳng tiếp xuống Rốn (Tề) là 3 tấc 6 phân. Cho nên nói: Trên trời ba mươi sáu, dưới đất ba mươi sáu, từ trời xuống đến đất là 8 vạn 4 ngàn dặm, nên từ Tâm đến Thận là 8 tấc 4 phân. Thiên Tâm 3 tấc 6 phân, Địa Thận 3 tấc 6 phân, giữa có Đan Điền 1 tấc 2 phân, không phải là 8 tấc 4 phân sao? Cửa rốn (Tề môn) còn gọi là Sinh Môn, có Thất Khiếu, thông với ngoại thận, là khiếu mà tinh thần bị tiết lậu, tên là Yển Nguyệt Lô, thuộc Nhâm Mạch. Dưới có Cửu Khiếu, là Địa Ngục Phong Đô. Cũng tên là Khí Hải, xuống khoảng 1 tấc 3 phân là Ngọc Trì, cũng gọi là Hạ Đan Điền, là chỗ để tàng Tinh và Thái Dược. Trái có Minh Đường, phải có Động Phòng, cũng không có huyệt, vuông 1 tấc 3 phân. Ở đó có hai khiếu, thông với Nội Thận. Trong Thận có khiếu, thông với Vĩ Lư. Từ Vĩ Lư thông Lưỡng Thận Đường cho đến hai huyệt Túc Tam Lí dưới đầu gối, xuống tiếp tới huyệt Dũng Tuyền, đó là quan khiếu tương thông với toàn thân.
Thượng Đan Điền: là Nê Hoàn, từ Mi Tâm đi vào 3 tấc.
Trung Đan Điền: là Huyệt Huỳnh Đình dưới Thổ Phủ.
Hạ Đan Điền: là Ngọc Trì dưới Khí Hải 1 tấc 3 phân.
Tâm, Cửu Vĩ (Giáng Cung) <---- 3 tấc 6 phân ----> Thổ Phủ (Huỳnh Đình đường kính 1 tấc 2 phân) <---- 3 tấc 6 phân ----> Rốn, Khí Hải (Ngọc Trì). Vậy, khoảng cách giữa Tâm và Thận tổng cộng là 8 tấc 4 phân.
Giáng Cung, trong huyệt là Ngã Tính, là quẻ Li, là giờ Ngọ, cũng gọi là Nam Cung, là nơi Thần Thất được luyện, cũng gọi là Xá Nữ, là Chân Âm, cũng tên là Bích Nhãn Hồ. Tại phương Nam, trên có xương che phủ, y gia gọi là Cửu Vĩ. Để thoái Hậu Cửu Thiên Tư Lự Chi Thần, nên gọi: “Long tòng hỏa lí xuất” là như vậy.
“Nội Kinh Đồ” có câu: “Bích Nhãn Hồ Tăng Thủ Thác Thiên”.
5/ Phế, thần như Bạch Hổ, tượng như khánh treo ngược, nằm trên ngũ tạng, đối vời bào thai thì như là che phủ, nên gọi là Hoa Cái (Lọng hoa che phủ). Thần là Hạo Hoa, tự Hư Thành, nặng 3 cân 3 lạng, 6 lá 2 tai, tổng cộng 8 lá. Phế là con của Gan, là mẹ của Tì. Trong tàng thất phách, như trẻ nhỏ, tên là: Thi Cẩu, Phục Thỉ, Tước Âm, Thôn Tặc, Phi Độc, Trừ Uế, Xú Phế. Mũi (Tị) là quan của nó, trái là Canh, phải là Tân. Ở khí làm ho, ở dịch làm nước mắt. Ở hình là da lông. Trên thông khí tới não, dưới thông khí tới tì, đó là những khí thuộc Phế, Phế là căn bản của Hô Hấp. “Huỳnh Đình” nói: “Suyễn tức hô hấp thể bất khoái, Cấp tồn Bạch Nguyên hòa lục hư”.
“Huỳnh Đình nội cảnh kinh” nói: “Phế thần Hạo Hoa tự Hư Thành”. Phế là cái lọng hoa che (Hoa Cái) lục phủ ngũ tạng, công năng chính của nó là điều hòa khí toàn thân, thân của nó rỗng nên có thể nạp khí, cho nên tên tự là Hư Thành. Màu của nó trắng, cho nên tên là Hạo Hoa.
“Suyễn tức hô hấp thể bất khoái, Cấp tồn Bạch Nguyên hòa lục hư”: nếu cảm thấy hô hấp trong thân không thông, tức thời nhanh chóng tập trung chú ý vào Phế thần màu trắng, để điều hòa lục hư.
Một tên là Tây Sơn Bạch Hổ. Ở Canh. Là Tinh của Kim. Thuộc quẻ Đoài. Ở phương Tây. Theo Đạo là Phách. Là Tình. Là mẹ của Thủy Tinh. Ở ngũ tạng là Phế. Tại trời là trăng. Là nhà của Ngã Phách.
6/ Tì thuộc trung ương Thổ, thịnh cả bốn mùa, là Hoàng Đế, thần như chim Phượng, tượng như Phúc Bồn (bồn che), tên là Thường Tại, tự là Hồn Đình, nhìn mặt trước thì che trên rốn (Tề), nhìn ngang thì che dạ dày (Vị), là Khí của Khôn, là Tinh của Thổ. Ở dưới Tâm 3 tấc, nặng 1 cân 2 lạng, to 3 tấc, dài 1 thước. Tì là con của Tâm, là mẹ của Phế, ngoài thông với lông mi, miệng là quan của nó. Thần của nó hay đố kị. Tì không định hình, chủ về Thổ, Âm. Cho nên Tì là then chốt của ngũ tạng, nó khai khiếu ở miệng, ở hình là gò má. Tì mạch xuất phát từ Ẩn Bạch, là chỗ của Bản Ý. “Huỳnh Đình kinh” nói: “Trị nhân bách bệnh tiêu cốc lương, Hoàng y tử đái long hổ chương”.
“Huỳnh Đình nội cảnh kinh” nói: “Tì thần Thường Tại tự Hồn Đình”. Do Tì thuộc Thổ, ở vị trí trung ương, bốn mùa không nhờ Thổ thì không thịnh vượng được, nên gọi là Thường Tại.
7/ Thận thuộc bắc phương Thủy, thuộc quẻ Khảm, hình như Huyền Lộc (Hươu đen), hai đầu, tên là Huyền Minh, tự là Dục Anh, hình như quả trứng đá, nằm đối diện bên cạnh eo lưng, nặng 3 cân 1 lạng, chủ về phân Thủy và Khí, tưới tắm toàn thân, như cây có gốc. Trái tên là Thận, phải tên là Mệnh Môn. Là phủ của sinh khí, là lò của tử khí, nếu giữ thì bền lâu, nếu dùng thì hao kiệt. Là mẹ của Gan, là con của Phế, tai là quan của nó. Trời sinh Ngã, do khí lưu động mà biến đổi, gọi là Tinh. Tinh Khí qua lại, là Thần. Thần này, Thận tàn Thần Trí của nó. Trái thuộc Nhâm, phải thuộc Quý. Ở giờ là Tí Hợi. Ở khí là Xuy (Thổi). Ở dịch là nước bọt. Ở hình là xương (cốt). Kinh của nó tới Thượng Tiêu, Doanh (khí) của nó tới Trung Tiêu, Vệ (huyết) của nó tới Hạ Tiêu. “Huỳnh Đình kinh” nói: “Thận bộ chi cung huyền khuyết viên, Trung hữu đồng tử minh thượng huyền. Chủ chư lục phủ cửu dịch nguyên, ngoại ứng lưỡng nhĩ bách dịch tân.”
“Huỳnh Đình nội cảnh kinh” nói: “Thận thần Huyền Minh tự Dục Anh”. Thận sinh Thủy, là Huyền Vũ ở phương bắc trong ngũ hành, vì huyền thủy đen sâu thăm thẳm, cho nền tên là Huyền Minh. Thận tàng Tinh, chủ về sinh dục, cho nên gọi là Dục Anh.
“Nạn kinh tam thập lục nạn” nói: “Thận có hai quả như thế nào? Tự nhiên là thận có hai quả, nhưng không phải đều là Thận. Quả bên trái gọi là Thận, quả bên phải gọi là Mệnh Môn.”
8/ Đởm (mật), là Tinh của Kim, là Khí của Thủy, màu xanh, là một lá ngắn nằm cạnh Gan. Đởm là can đảm. Người có Đởm to tất không sợ hãi. Thần tên là Long Diệu, tự là Uy Minh. Hình như Quy Xà hỗn hình. Dáng như dải lụa treo. Nặng 3 lạng 3 thù (1 thù = 1/24 lạng). Là phủ của gan. Nếu theo căn cứ, Đởm không thuộc trong số ngũ tạng, như vậy thì quy về lục phủ, nhân vì Đởm cũng nhận thủy khí, đồng đạo với Khảm, vậy cũng không thể quy về lục phủ, cho nên có tạng Đởm biệt lập, hợp với Bàng Quang, cũng chủ về lông tóc. “Huỳnh Đình kinh” nói: “Chủ chư khí lực nhiếp hổ binh, ngoại ứng nhãn đồng tị trụ gian. Não phát tương phù diệc câu tiên, cửu sắc cẩm y lục hoa quần.”
“Huỳnh Đình nội cảnh kinh” nói: “Đởm thần Long Diệu tự Uy Minh”. Đởm là Âm Mộc, ứng với vị trí Thanh Long ở phía Đông. Cho nên tên là Long Diệu. Đởm là quan trung chính, quyết đoán từ nó mà ra, vì nó trung chính không thiên lệch, nên tự là Uy Minh.
9/ Gan, thần như Thanh Long, hình như quả bầu treo, gần với tim, trái có 3 lá, phải có 4 lá. Thần tên là Long Yên, tự Hàm Minh. Nặng 4 cân 4 lạng. Gan là mẹ Tâm, là con Thận. Trong gan có 3 hồn: Sảng Linh, Đài Quang, U Tinh, mắt là quan của nó, mắt trái là Giáp, mắt phải là Ất. Đàn ông đến 60 tuổi, khí gan suy, lá gan mỏng, Đởm ít dần, mắt mờ dần. Ở hình là gân, mạch gan hợp với Mộc, là tạng của Hồn. Ở dịch là nước mắt, nếu Thận tà nhập gan, thì nhiều nước mắt. Đởm là phủ của gan, Đởm hợp với gan. “Huỳnh Đình kinh” nói: “Hòa chế hồn phách tân dịch bình, ngoại ứng nhãn mục nhật nguyệt tinh, bách kha sở chung tồn Vô Anh, dụng đồng thất nhật tự sung doanh.”
“Huỳnh Đình nội cảnh kinh” nói: “Can thần Long Yên tự Hàm Minh, Ế uất đạo yên chủ trọc thanh”. Gan chủ gân, màu của nó xanh, trong ngũ hành thì thuộc Thanh Long ở phương đông. Gan xuất khiếu ở mắt, thuộc thiên can Dương Giáp và Âm Ất.
“Hoàng đế nội kinh - Tố vấn - Thượng cổ thiên chân luận đệ nhất”: “Đàn ông.......48, dương khí suy kiệt ở trên, mặt khô, tóc mai bắt đầu bạc. 56, khí gan suy, gân không động được.”
Một chữ Đông Hải Thanh Long. Ở Giáp. Dịch của Mộc. Thuộc quẻ Chấn. Ở phương đông. Là Mộc trong ngũ hành. Là Hồn trong đạo. Là Tính. Là mẹ Hỏa Thần. Trong ngũ tạng là gan. Tại trời là mặt trời. Là chỗ của Ngã Hồn.
10/ Vĩ Lư quan, một tên là Cửu Khiếu, cũng tên là Cửu Đầu Sư Tử, cũng gọi là Thái Tử Xạ Cửu Trùng Thiết Cổ, Âm Quan Cố Bế, Thường Niên Bất Năng Khai, tên là Cửu Trùng Thiết Cổ. Thái Tử, là Thuần Dương Khí có thể Đề Hồ Quán Đỉnh (đạo phật ví Đề Hồ với tinh chất sữa bò = phật pháp tối cao. Đề Hồ Quán Đỉnh là việc rót trí tuệ vào người để đạt được giác ngộ), mới có thể quán thông, cho nên gọi là Xạ Cửu Trùng Thiết Cổ, đó là đường tắt để lên trời. Một tên là Địa Trục Thần Hồ, cũng tên là Triều Thiên Lĩnh. Một tên là Long Hổ Huyệt. Một tên là Tam Xoa Cốt. Trong Thận có Kim Đỉnh, trong ngoài tương thông, tổng có 3 đường thông lên Giáp Tích, thẳng thấu lên đỉnh môn tới Nê Hoàn, thông với cốt tủy toàn thân.
11/ Khí trong Đan Điền đó: trái xanh, phải vàng, dưới đen, trên trắng. Hạ Đan Điền, Chân Hổ, Khảm Địa, Anh Nhi xứ, Phù Tang Minh, Khí Hải, Thủy Tinh Cung, Tẫn Hộ. Huyệt trong nó, là Ngã Chân Tinh Mệnh Đế (chân tinh gốc mệnh của ta). Trên 1 tấc 3 phân, là chỗ của Tạo Hóa, là căn bản của Thiên Địa. Là chỗ của Bạch Đầu Lão Tử Thanh Huyền, là Ngã Mệnh Tạo Hóa Sơn Xuyên. Chân Nhất Xứ, Thủy Trung Kim, gọi là Kim Tinh, là Ngã Tiên Thiên Chi Chí Tinh, cũng có nói đến những câu: “Hổ hướng thủy trung sinh”, “Nhất dương phục sơ”, “Tí thời”, “Hải để nguyệt”, “Nhân môn”, “Sơ sinh ngã căn cơ”. Người tu chân không thể không biết.
“Nội Kinh đồ” cũng nói: “Bạch đầu lão tử mi thùy địa”
“Thủy Trung Kim”: trong quẻ Khảm có một hào Dương. Khảm tượng Anh Nhi. “Chung Lã truyền đạo tập - Luận ngũ hành đệ lục” nói: “Thận, là thủy. Trong Thủy có Kim. Kim vốn sinh Thủy, lúc hạ thủ phải biết Thủy trung Kim. Thủy vốn ghét Thổ, sau khi Thái Dược nên đắc được Thổ quy Thủy. Long là tượng của Gan, Hổ là hình của Phế. Dương Long xuất ra từ cung Li, Âm Hổ sinh từ vị trí Khảm. Ngũ hành nghịch hành. Khí truyền cho Mẫu.”
Chân Hổ, tức Chân Dịch trong Thận Khí. Chung Lã gọi là: “Chân Nhất Chi Thủy”, “Chung Lã truyền đạo tập - Luận Long Hổ đệ bát” nói: “Thận Thủy sinh Khí, trong Khí có Chân Nhất Chi Thủy, tên là Âm Hổ, Hổ gặp Dịch mà tương hội. Tâm Hỏa sinh Dịch, trong Dịch có Chính Dương Chi Khí, tên là Dương Long, Long gặp Khí mà tương hợp”.
“Nhất Dương phục sơ”: trong năm, đến Đông Chí thì Nhất Dương sinh; trong ngày, đến giờ Tí thì Hải Để Nguyệt (trăng đáy nước), đó là cái nghĩa Âm tận Dương sinh. Chân Dương Chi Khí xuất hiện, căn cơ của sinh mệnh đều dựa vào đó.
12/ Hai quả Thận, là Lưỡng Nghi. Trong có Liên Hoàn, là Ngã Chân Tinh. Trong tàng Xích Bạch nhị Khí (hai khí đỏ trắng). Khi còn nằm trong bụng mẹ, chưa có thân này, đã có huyệt đó, vì có huyệt đó, mới có thân này. Trái là Huyền Dương, phải là Tẫn Âm, trong huyệt là Ngã Hậu Thiên Chi Tinh Hải, cũng gọi là Chân Diên. Nho gọi là Thái Cực. Đạo gọi là Thủy Hương Diên, là Bắc Phương Túc Sát Chính Khí Tử Hà Xa. Thuận thì thành người, nghịch thì thành tiên. Một tên là Tào Khê. Một tên là Tổ Cung. Thông lên xuống hai mắt, giáng Hoa Trì. Dưới lưỡi xuất một khiếu là Ngọc Tuyền.
“Chân Diên”, tức Chân Nhất Chi Thủy trong Chân Khí. “Chung Lã truyền đạo tập - Luận sưu thiêm đệ thập nhất” nói: “Xuất ra từ trong Thận ta, tàng  Chân Khí của cha mẹ mà thành Diên, Chân Nhất, Chính Dương hợp với nó Dược biến đổi mà thành Hống. ... Chân Diên là do Chân Khí tự thân ta hợp mà được. Chân Diên sinh trong Chân Khí, trong Khí là Chân Nhất Chi Thủy???”
13/ Đào Khang tự Hợp Diên, tên là Đỉnh Liên Hoa, Quan Châu Y, như dáng Chân Nhân. Ở Thận Cung có các Khí Bích, Tử, Bạch, Lục, Thanh, Xích, Thương, là chỗ biến hóa của 8 phương trời nơi phương bắc (Bắc phương bát thiên sở hóa).
14/ Giáp Tích song quan, là đường tắt để Thần Tiên thăng giáng, là mạch trong người ta, là huyệt Cao Hoang, nói song quan vì trong có cái ròng rọc kéo nước. Trái là Thái Dương, phải là Thái Âm. Dương Thăng Âm Hô lộ, thông huyệt Thiên Trụ, cũng tên là Nội Song Lâm, thông với Ngoại Song Lâm, Dương Quan mạch phục ở trong. Huyệt này hun đốt quan khiếu, hạ tới Dũng Tuyền, thượng tới Nê Hoàn, kinh lạc tiếp với Giáng Cung, Hoa Trì, lấy Thủy giáng vào Hoa Cái, là chỗ của Ngũ Hành, là bên trong của gốc mệnh Hạ Đan Điền (Hạ Đan Điền mệnh đế chi nội).
“Nội Kinh đồ” nói: “Giáp Tích song quan thấu đỉnh môn, tu hành lộ kính thử vi tôn”.
Tham khảo châm cứu huyệt vị “Cao Hoang huyệt”, tại dưới đốt sống thứ tư của cột sống ngực, cách mạch Đốc 3 tấc.
15/ Ngọc Chẩm quan, chỗ này có một tên là Dương Cung Ngọc Kinh Sơn, Thiên Trụ, Thái Ất huyệt, một tấc trước chỗ đến xương đại trùy. Đó là đường tắt để đi ngược lên trời. Bên trong Hoàng Long đảo cuốn lên, tưới nước Tương Giang (Xung Tương Giang thủy), trên dưới thông suốt. Cửa quan này rất chặt, Dương Thần giữ ở đó, tới đó tất phải dùng Dương Khí, mới có thể thông phá được, hoá thành Chân Khí, tới Thước Kiều mà tương hội với Ngưu Nữ, sinh ra Anh Nhi.
16/ Hai khiếu dưới lưỡi, tên là Huyền Ưng. Cái ở sau tên là Yết, nuốt xuống tất cả đồ ẩm thực. Cái ở trước tên là Hầu, có 12 đốt xương, là thập nhị trùng lâu, là nơi thông suốt thanh khí.
17/ Rốn là Sinh Môn, Thái Ất Thần Quân ở đó, chủ Tính Mệnh của người, điều khiển 1 vạn 2 ngàn tinh hoa toàn thân (?).
Khí công và Nội Kinh Đồ
Tiến sĩ Viên Khang Tựu
Nhận thức về Nội Kinh Đồ
Tu Chân Đồ và Nội Kinh Đồ là bản thiết kế để dạy tu luyện nội đan của đạo giáo. Việc tu luyện nội đan bắt đầu bằng công phu luyện khí, sau khi tu được Dương Thần thì tiếp tục dùng Dương Thần để dựa vào một hệ thống công trình tạo mệnh thay tạo hóa cải biến sinh mệnh. Tu Chân Đồ và Nội Kinh Đồ từ trước tới nay được đạo môn coi như bảo vật không truyền ra ngoài, cho dù trong giáo mà chưa có một trình độ tu luyện tâm tính cùng với tri trức về đạo học nhất định thì cũng không được thầy sở truyền. Hai đồ hình này tổng kết sâu sắc công phu Luyện khí tồn tư trong Huỳnh Đình Kinh cùng với kỹ xảo về lí luận tu đan được nói rõ trong cuốn Tính Mệnh Khuê Chỉ cuối đời Minh. Trong chúng bao gồm tri thức về sinh lí cơ thể con người cũng các khái niệm y học. Là người luyện khí tất nên hiểu rõ hai đồ hình này.
1. Đồ hình này do Lưu Tố Vân khắc năm Quang Tự thứ 12, tức năm 1886.
2. Bản khắc của đồ hình này tại Bắc Kinh Bạch Vân Quán là do mô phỏng mà có.
3. Đồ hình này khắc lần đầu giữa khoảng năm Càn Long thứ 7 (1742) và Quang Tự thứ 12 (1886).
4. Phong cách của đồ hình này thừa kế kỹ xảo minh họa của cuốn Tính Mệnh Khuê Chỉ cuối đời nhà Minh, đó là văn tự và đồ họa hội ý. Trong đồ hình cũng có những câu ẩn mật khó hiểu, đó là theo phong cách giấu từ của sách về nội đan.
5. Trong đồ có thơ rằng:
Thiết ngưu canh địa chủng kim tiền.
Khắc thạch nhi đồng bả quán xuyên.
Nhất lạp túc trung tàng thế giới.
Bán thăng đương nội chử sơn xuyên.
Bạch đầu lão tử mi thùy địa.
Bích nhãn hồ tăng thủ thác thiên.
Nhược hướng thử huyền huyền hội đắc.
Thử huyền huyền ngoại cánh vô huyền.
Là lấy từ “Lã Tổ toàn thư - Quyển tứ văn tập trung - Ngũ ngôn luật thập lục đầu”:
Thiết ngưu canh địa chủng kim tiền.
Khắc thạch nhi đồng bả quán xuyên.
Nhất lạp túc trung tàng thế giới.
Bán thăng đương nội chử sơn xuyên.
Bạch đầu lão tử mi thùy địa.
Bích nhãn hồ tăng thủ chỉ thiên.
Nhược vấn thử huyền huyền hội đắc.
Thử huyền huyền ngoại cánh vô huyền.
Mà “Lã Tổ toàn thư” bản khắc gốc là do Lưu Thể Nộ năm thứ 7 Càn Long (1742) sưu tập mà thành. Như vậy, đồ hình ra đời sau “Lã Tổ toàn thư”.
6. Đan thi dịch giải:
6.1 Thiết ngưu canh địa chủng kim tiền: Chỉ vận chuyển Thận khí, công phu vận chuyển phân ra: Xe trâu (ngưu xa), xe dê (dương xa), xe hươu (lộc xa). Vì là sơ luyện, nên dùng xe trâu. “Chủng kim tiền” là ẩn dụ chỉ việc cày cấy thu hoạch được đồ quý báu, mượn ý để chỉ Kim Đan.
Khắc thạch nhi đồng bả quán xuyên: “Bả kim tiền quán xuyên”, thiên cơ ở trong đó, nên coi trọng. “Khắc thạch nhi đồng” ám chỉ cái vẽ ở trong đồ hình. “Nhi đồng bả quán xuyên” thành Bắc Đẩu, “Phá mê chính đạo ca” nói: “Nhược ngộ thần tiên thân chỉ quyết, tróc trú Bắc Đẩu chu thiên luân”, là nói cái đó.
Nhất lạp túc trung tàng thế giới: Tiểu vũ trụ đồng đẳng với đại vũ trụ, Đan Đầu Chủng Tử là toàn bộ nguồn gốc của sinh mệnh.
Bán thăng đương nội chử sơn xuyên: “Sơn xuyên” đại vũ trụ, huyền cơ cũng đồng với “Đương nôi phanh chử công phu”. Chính là tại Hỏa Hầu.
Bạch đầu lão tử mi thùy địa: “Bạch đầu” là Khí. Chỉ khí theo Đốc Mạch đi lên, tiếp tục dẫn Âm Dịch men theo đầu hạ giáng.
Bích nhãn hồ tăng thủ thác thiên: “Thủ thác thiên” chỉ Đáp Thước Kiều, Nhâm Đốc hai mạch nhờ vào đưa lưỡi lên hàm trên mà làm cho khí được thông suốt.
Nhược hướng thử huyền huyền hội đắc: Hiểu được huyền cơ của Tạo Hóa, thì công phu này hoàn tất.
Thử huyền huyền ngoại cánh vô huyền: Ngoài huyền cơ cuả tạo hóa ra, chẳng có gì khác cả.
 6.2 Ngã gia đoan chủng tự gia điền: Trong người có ruộng có thể cánh tác được, không cần cầu bên ngoài.
Khả dục linh miêu hoạt vạn niên: Ruộng ở trong thân có thể nuôi dưỡng sinh mệnh, trường sinh bất lão.
Hoa tự hoàng kim bào bất đại: Hoa nở ở đó là Kim Hoa, không quá lớn. Kim Hoa tức là Chân Khí. Sơ khởi thì bao trùm đan chủng, nhỏ bé non nớt.
Tử như ngọc lạp quả giai viên: Lớn bé chỉ vẻn vẹn như hạt thóc.
Tài bồi toàn lại trung cung thổ: Ý này là trọng điểm của công phu.
Quán khái tu bằng thượng dung tuyền: Khí đi lên trên, Thượng Đan Điền có Dịch chảy xuống.
Hữu triêu nhất nhật công hành mãn: Hỏa hầu đầy đủ rồi, công phu đến độ, vậy là thẳng tiến đến chỗ công quả viên mãn.
Tiện thị Bồng lai Đại La Tiên: Đạt Đại La Kim Tiên, tối cao của Tiên giới.
6.3 Chúng diệu chi môn hà xứ cầu,
Cơ quan bát chuyển thủy nghịch lưu,
Vạn trượng thâm phiêu ưng kiến để,
Cam tuyền dũng khởi mãn sơn đầu.
“Thủy nghịch lưu”, vì Thận Khí bốc lên trên, cho nên nói là “nghịch lưu”. Thận Khí là công năng của Hậu Thiên, xuất ra từ Tiên Thiên Thận Thủy, toàn nhờ vào “Thiết ngưu canh địa” mà có được, là hình tượng của xe trâu (ngưu xa) vận chuyển lên sườn núi. “Sơn đầu” tức là đỉnh đầu. Thận Khí tới đỉnh đầu, thì từ trong miệng sinh ra tân dịch mà thành “Cam tuyền dũng khởi”. Đó là Khí nhiều sinh Dịch, thể hiện của Nhâm Đốc tương thông.
6.4 Thận Thần Huyền Minh tự Dục Anh - Huỳnh Đình Kinh
6.5 Tâm Thần Đan Nguyên tự Thủ Linh - Huỳnh Đình Kinh
6.6 Can Thần Long Yên tự Hàm Minh - Huỳnh Đình Kinh
6.7 Phế Thần Hạo Hoa tự Hư Thành - Huỳnh Đình Kinh
6.8 Đảm Thần Long Diệu tự Uy Minh - Huỳnh Đình Kinh.
Chú ý: Ngũ tạng trong đồ hình thiếu mất Tì, lục phủ thì chỉ đề cập đến Đảm. Tì là Trung Ương Thổ, đó là ý ẩn dụ, là nơi môi giới để Thủy Hỏa giao tiếp. Việc tu luyện công phu tự mình đã có nó, không thể thiếu được, cho nên không cần phải luyện cái dụng của Tạng Phủ chi Thần. Còn Đởm, no là cái duy nhất trong lục phủ. Nguyên là ngũ tạng đều chủ về tàng tinh bất lậu, lục phủ chủ về chuyển hóa vật chất mà không tàng, theo công năng đó thì Đảm không tàng trữ tinh chất của ngũ tạng, nên đặc biệt cho là cường điệu. Hậu thế lấy “Tam Tiêu” thay Đảm làm đại biểu cho lục phủ, theo “Lục Tự Quyết”. (đoạn này khó hiểu quá, dịch không thông được).
6.9 Hậu tam quan: Vĩ Lư hạ quan, Giáp Tích trung quan, Ngọc Chẩm thượng quan, hợp xưng là tam quan. Vị trí của tam quan này, phát triển đến thời Chung Lã (Chung Ly Quyền và Lã Đồng Tân), có chỗ bất đồng về việc mô tả. Trong “Linh bảo tất pháp-Trửu hậu phi kim tinh đệ ngũ”, Chung Lã cho rằng: Huyệt Thiên Trụ là thượng quan, tương đương với dưới đốt sống cổ thứ 3; Huyệt Thần Đạo là trung quan, tương đương với dưới đốt sống ngực thứ 5; Huyệt Mệnh Môn là hạ quan, tương đương với dưới đốt sống lưng thứ 2.
6.10 Tiền tam Đan Điền: Khí Hải là Hạ Đan Điền, Giáng Cung là Trung Đan Điền, Nê Hoàn là Thượng Đan Điền.
6.11 Thập nhị lâu đài tàng mật quyết: “Thập nhị trùng lâu”, là xương sụn của cổ họng. Mật quyết là ở tại ranh giới Khí Dịch tương giao, Yết Tân (nuốt nước bọt) hoặc Yết Khí (nuốt khí) là nói về việc Nghịch Cầu Đan Chủng.
6.12 Âm Dương Huyền Tẫn xa: Huyền Tẫn, là nơi vạn vật sinh. Trần Đoàn mượn để làm công phu dự bị cho việc Luyện Tinh Hóa Khí. Đem Huyền Tẫn xa để ví với việc xuất hiện của Đan Chủng (nội đan), tại cái ống bễ lò rèn (Thác thược: ống bễ lò rèn, ví với khoảng không hư vô) ở nơi Âm Dương Hỗn Độn, Chân Khí do đó mà xuất hiện hình dạng. “Lão Tử Đạo Đức Kinh-Đệ lục chương”: “Cốc Thần bất tử, thị vị Huyền Tẫn. Huyền Tẫn chi môn, thị vị Thiên Địa căn. Miên miên nhược tồn, dụng chi bất cần.”
6.13 Thủy Hỏa giao tiếp địa: “Địa” này là tại Hạ Đan Điền, nói lên Chân Khí lúc mới sinh ở đó. “Ngộ Chân Thiên” nói: “Yếu tri sản dược xuyên nguyên xứ, Chỉ tại tây nam thị bản hương” và: “Ỷ tha Khôn vị sinh thành thể, Chủng tại Càn gia giao cảm cung”, đều là ý đó.
6.14 Giáp Tích song quan thấu đỉnh môn, Tu hành lộ kính thử vi căn: Khí tất phải dọc theo Giáp Tích đi lên, đó là phương pháp luyện khí căn bản. Khí đến đỉnh đầu, đỉnh đầu có Nê Hoàn Cung, đó là đích cuối cùng của tu luyện.
(Tiến sĩ Viên Khang Tựu)

Thứ Ba, 3 tháng 12, 2013

Thứ Hai, 2 tháng 12, 2013

Nguyên tắc chọn huyệt châm cứu

Nguyên tắc chọn huyệt châm cứu

Trên một hoặc những đường kinh có liên hệ đến bệnh chứng cần điều trị, người thầy thuốc châm cứu đặc biệt chú ý đến những huyệt nằm ở những đoạn từ khuỷu tay đến ngón tay và từ đoạn khoeo chân đến ngón chân.
Để điều trị, các nhà châm cứu thường phối hợp nhiều huyệt lại với nhau (còn được gọi là một công thức huyệt). Việc xây dựng công thức huyệt tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc chọn huyệt sau: 
Nguyên tắc chọn huyệt tại chỗ.
Nguyên tắc chọn huyệt theo lý luận đường kinh.
Nguyên tắc chọn những huyệt đặc hiệu. 
Chọn huyệt theo nguyên tắc tại chỗ
Là cách chọn những huyệt ở chỗ đau, và lân cận nơi đau.
Nói chung, mỗi huyệt đều có ba loại tác dụng: tại chỗ, theo đường kinh và toàn thân. Nguyên tắc chọn huyệt tại chỗ là cách vận dụng đặc điểm đầu tiên về tác dụng điều trị của huyệt.
Những ví dụ sau đây là nói về cách chọn huyệt theo nguyên tắc tại chỗ:
Đau nhức khớp vai: chọn các huyệt Kiên ngung, Kiên tỉnh, Trung phủ.
Đau đầu vùng trán: chọn các huyệt Ấn đường, Toản trúc...
Đau răng: chọn các huyệt Giáp xa, Địa thương, Hạ quan.
Chỉ định: cách chọn huyệt này được sử dụng trong điều trị mọi trường hợp, nhất là đau nhức.
Chọn huyệt theo lý luận đường kinh
Là cách chọn huyệt trên các đường kinh có liên hệ với bệnh và chứng cần điều trị.
Cách chọn huyệt này dựa trên nguyên tắc kinh mạch đi qua vùng nào thì có tác dụng phòng chống được bệnh tật liên quan đến vùng đó.
Trên một hoặc những đường kinh có liên hệ đến bệnh chứng cần điều trị, người thầy thuốc châm cứu đặc biệt chú ý đến những huyệt nằm ở những đoạn từ khuỷu tay đến ngón tay và từ đoạn khoeo chân đến ngón chân.
Các huyệt này thường thuộc các nhóm huyệt nguyên lạc, khích huyệt, nhóm huyệt ngũ du. Việc chọn những huyệt thuộc những nhóm này phải tuân theo những luật nhất định về phối hợp huyệt.
Dưới đây là những cách chọn huyệt theo nguyên tắc đường kinh:
Chọn huyệt nguyên lạc của 12 đường kinh chính
Hệ thống nguyên lạc:
Theo học thuyết kinh lạc thì cơ thể con người có 12 đường kinh chính: gồm 6 kinh của tạng (kinh âm) và 6 kinh của phủ (kinh dương).
Mỗi kinh của tạng (kinh âm) đều có quan hệ biểu lý (bên trong và bên ngoài) với một kinh của phủ (kinh dương) nhất định (ví dụ như: kinh Phế với kinh Đại trường, kinh Can với kinh Đởm, kinh Thận với kinh Bàng quang, kinh Tâm bào với kinh Tam tiêu, kinh Tâm với kinh Tiểu trường, kinh Tỳ với kinh Vị).
Mỗi đường kinh đều có một huyệt nguyên và một huyệt lạc. Sự liên hệ giữa kinh âm và kinh dương nêu trên được thực hiện bằng hệ thống nguyên lạc.
Khí huyết của một đường kinh A có thể đến đường kinh B (có quan biểu lý tương ứng với nó) thông qua hệ thống nguyên lạc này. Khí huyết của kinh A sẽ đi từ huyệt lạc của kinh A đến huyệt nguyên của kinh B. Ngược lại khí huyết của kinh B sẽ đi từ huyệt lạc của kinh B đến huyệt nguyên của kinh A.
Tên huyệt nguyên lạc của 12 kinh chính:
Kinh mạch
Nguyên
Lạc
Phế
Thái uyên
Liệt khuyết
Đại trường
Hợp cốc
Thiên lịch
Tâm bào
Đại lăng
Nội quan
Tam tiêu
Dương trì
Ngoại quan
Tâm
Thần môn
Thông lý
Tiểu trường
Uyển cốt
Chi chính
Can
Thái xung
Lãi câu
Đởm
Khâu khư
Quang minh
Tỳ
Thái bạch
Công tôn
Vị
Xung dương
Phong long
Thận
Thái khê
Đại chung
Bàng quang
Kinh cốt
Phi dương
Phương pháp sử dụng huyệt nguyên lạc:
Dùng huyệt nguyên kinh tương ứng của bệnh chứng đó phối hợp với huyệt lạc của kinh quan hệ biểu lý tương ứng với nó. Cách phối hợp này thường được áp dụng trong các bệnh lý hư.
Ví dụ:
Trong điều trị bệnh chứng được chẩn đoán phế hư: huyệt được chọn gồm Thái uyên (huyệt nguyên của Phế) và Thiên lịch (huyệt lạccủa Đại trường).
Trong điều trị bệnh chứng được chẩn đoán Đại trường hư, huyệt được chọn gồm Hợp cốc (huyệt nguyên của kinh Đại trường) và Liệt khuyết (huyệt lạc của Phế).
Dùng huyệt lạc kinh tương ứng với chứng bệnh đó. Cách sử dụng riêng huyệt lạc thường được sử dụng cho cả trường hợp bệnh lý thực và trong cả bệnh lý hư.
Trong điều trị bệnh chứng được chẩn đoán Phế thực, huyệt được chọn là Liệt khuyết (huyệt lạc của Phế).
Trong điều trị bệnh chứng được chẩn đoán Đại trường thực, huyệt được chọn là Thiên lịch (huyệt lạc của Đại trường).
Chọn huyệt du mộ
Trong châm cứu học, có một nguyên tắc chọn huyệt rất gần với đặc điểm sinh lý giải phẫu thần kinh. Đó là nguyên tắc sử dụng các huyệt du và mộ.
Hệ thống du mộ huyệt của 12 đường kinh:
Huyệt du: là những huyệt nằm trên kinh Bàng quang ở lưng (do đó còn gọi là bối du huyệt), đại biểu cho các tạng phủ. Ví dụ:
Phế du (bối du huyệt của Phế) có vị trí ở ngang đốt sống lưng 3 4, dù thuộc về kinh Bàng quang nhưng được sử dụng trong điều trị các bệnh lý của Phế (các bệnh lý có liên quan đến hô hấp). 
Tỳ du (bối du huyệt của Tỳ) có vị trí ở ngang đốt sống lưng 11 12, thuộc về kinh Bàng quang, được sử dụng trong điều trị các bệnh lý của Tỳ (các bệnh lý có liên quan đến tiêu hóa).
Đại trường du (bối huyệt du của Đại trường) có vị trí ở ngang đốt sống lưng 4 5, thuộc về kinh Bàng quang, được sử dụng trong điều trị các bệnh lý của Đại trường (các bệnh lý có liên quan đến ruột già).
Huyệt mộ: là một loại huyệt đại biểu khác cho các tạng phủ, nằm ở các đường kinh chính đi qua bụng. Ví dụ:
Đản trung (mộ huyệt của Tâm bào) nằm trên đường giữa ngực, ngang khoảng liên sườn 4; dù nằm trên mạch Nhâm nhưng được sử dụng trong điều trị các bệnh lý của Tâm bào (có liên quan đến các bệnh lý của hệ tim mạch).
Trung quản (mộ huyệt của Vị) nằm trên đường giữa bụng, trên rốn 4 thốn; trên mạch Nhâm; được sử dụng trong điều trị các bệnh lý của Vị (các bệnh của hệ tiêu hóa).
Trung cực (mộ huyệt của Bàng quang) nằm trên đường giữa bụng, dưới rốn 4 thốn; trên mạch Nhâm, được sử dụng trong điều trị các bệnh lý của Bàng quang (các bệnh lý liên quan đến tiết niệu).
Hai loại huyệt này (du và mộ huyệt) có đặc điểm chung là ở gần các tạng phủ mà chúng đại diện. Vì vậy có tác dụng lớn trong chữa bệnh mạn tính của tạng phủ mà các huyệt này đại diện.
Du và mộ huyệt của 12 đường kinh:
Kinh mạch
Mộ
Du
Tâm
Cự khuyết
Tâm du
Can
Kỳ môn
Can du
Tỳ
Chương môn
Tỳ du
Phế
Trung phủ
Phế du
Thận
Kinh môn
Thận du
Tâm bào
Đản trung
Tâm bào du
Đại trường
Thiên xu
Đại trường du
Tam tiêu
Thạch môn
Tam tiêu du
Tiểu trường
Quan nguyên
Tiểu trường du
Vị
Trung quản
Vị du
Đởm
Nhật nguyệt
Đởm du
Bàng quang
Trung cực
Bàng quang du
Phương pháp sử dụng du mộ huyệt:
Nhóm huyệt du mộ được chỉ định trong các bệnh lý của các cơ quan nội tạng (bệnh của tạng phủ) và thường dùng trong các bệnh được chẩn đoán hư theo y học cổ truyền.
Cách sử dụng khi có chỉ định là phối hợp cả du huyệt và mộ huyệt của kinh tương ứng với tạng phủ có bệnh.
Ví dụ: chọn huyệt Trung phủ (mộ của Phế) và Phế du (du huyệt của Phế) để điều trị bệnh lý Phế hư.
Tuy nhiên, trongthực tế lâm sàng việc sử dụng đồng thời cả du và mộ huyệt có lúc khó khăn, do đó du mộ huyệt còn được sử dụng theo luật “dương dẫn âm, âm dẫn dương”, nghĩa là bệnh của tạng (thuộc âm) thì sử dụng bối du huyệt (ở lưng, thuộc dương); và ngược lại bệnh của phủ (thuộc dương) thì sử dụng mộ huyệt (ở bụng, thuộc âm), ví dụ: bệnh lý phế hư (thuộc âm) chọn huyệt phế du (thuộc dương); bệnh lý phủ Vị (thuộc dương) chọn huyệt Trung quản (thuộc âm).
Chọn huyệt ngũ du
Ngũ du huyệt:
Ngũ du huyệt là một nhóm huyệt trong những huyệt đặc trị của 12 đường kinh.
Nó được phân bố từ khuỷu tay trở ra và đầu gối trở xuống.
Người xưa dựa vào sự vận hành của khí huyết trong kinh mạch, dùng hiện tượng nước chảy tự nhiên để minh họa (khí hành từ nhỏ đến lớn, từ nông đến sâu). Để phân biệt, người ta dùng 5 tên gọi: tỉnh, huỳnh, du, kinh, hợpvới những tác dụng riêng để biểu hiện sự lưu hành của khí qua mỗi huyệt trong kinh mạch.
Nơi nước đầu nguồn, chỗ xuất của khí là tỉnh.
Nơi nước chảy nhẹ, chỗ lưu của khí là vinh (huỳnh).
Nơi nước dồn lại để lưu hành, chỗ chú của khí là du.
Nơi nước đi qua, chỗ hành của khí là kinh.
Nơi nước tụ lại, chỗ nhập của khí là hợp.
Tác dụng của ngũ du huyệt:
Tỉnh huyệt chủ trị dưới tâm đầy.
Huỳnh (vinh) huyệt chủ trị sốt.
Du huyệt chủ trị phong thấp, đau khớp.
Kinh huyệt chủ trị suyễn, ho.
Hợp huyệt chủ trị khí nghịch, tiết tả.
Sự phân bố của ngũ du theo ngũ hành:
Kinh âm
Kinh dương
Tỉnh huyệt thuộc mộc
Vinh huyệt thuộc hỏa
Du huyệt thuộc thổ
Kinh huyệt thuộc kim
Hợp huyệt thuộc thủy
Tỉnh huyệt thuộc kim
Vinh huyệt thuộc thủy
Du huyệt thuộc mộc
Kinh huyệt thuộc hỏa
Hợp huyệt thuộc thổ
Hệ thống ngũ du huyệt của 6 âm chính kinh:
Huyệt
Kinh
Tỉnh mộc
Vinh hỏa
Nguyên du thổ
Kinh kim
Hợp thủy
Phế
Thiếu dương
Ngư tế
Thái uyên
Kinh cừ
Xích trạch
Tâm bào
Trung xung
Lao cung
Đại lăng
Giản sử
Khúc trạch
Tâm
Thiếu xung
Thiếu phủ
Thần môn
Linh đạo
Thiếu hải
Tỳ
Ẩn bạch
Đại đô
Thái bạch
Thương khâu
Âm lăng
Can
Đại đôn
Hành gian
Thái xung
Trung phong
Khúc tuyền
Thận
Dũng tuyền
Nhiên cốc
Thái khê
Phục lưu
Âm cốc
Hệ thống ngũ du huyệt của 6 dương chính kinh:
Huyệt
Kinh
Tỉnh kim
Vinh thủy
Du mộc
Nguyên
Kinh hỏa
Hợp thổ
Đại trường
Thương dương
Nhị gian
Tam gian
Hợp cốc
Dương khê
Khúc trì
Tam tiêu
Quan xung
Dịch môn
Trung chữ
Dương trì
Chi câu
Thiên tĩnh
Tiểu trường
Thiếu trạch
Tiền cốc
Hậu khê
Uyển cốt
Dương cốc
Tiểu hải
Vị
Lệ đoài
Nội đình
Hãm cốc
Xung dương
Giải khê
Túc tam lý
Đởm
Khiếu âm
Hiệp khê
Lâm khấp
Khâu khư
Dương phụ
Dương lăng
Bàng quang
Chí âm
Thông cốc
Thúc cốt
Kinh cốt
Côn lôn
Ủy trung
Phương pháp sử dụng ngũ du huyệt:
Vận dụng cách chọn huyệt ngũ du phải dựa trên cơ sở của ngũ hành với luật sinh khắc để tiến hành.
Chẩn đoán bệnh theo ngũ hành.
Điều trị theo nguyên tắc: hư bổ mẹ, thực tả con.
Có thể sử dụng 1 2 đường kinh.
Chọn huyệt khích
Khích có n ghĩa là khe hở, ý nói vùng mà mạch khí tụ lại nhiều. Mỗi kinh mạch trong 12 kinh chính đều có 1 huyệt khích. Ngoài ra những mạch âm duy, Dương duy, âm kiểu, Dương kiểu cũng có huyệt khích. Như vậy có 16 huyệt khích và tất cả đều nằm trên những kinh chính. 
Đặc tính quan trọng của huyệt khích là điều trị rấttốt những bệnh cấp, nhất có là kèm đau nhức của các kinh thuộc nó. 
Bảng: Hệ thống huyệt khích:
Đường kinh
Tên huyệt
Phế
Khổng tối
Tâm bào
Khích môn
Tâm
Âm khích
Đại trường
Ôn lưu
Tam tiêu
Hội tông
Tiểu trường
Dưỡng lão
Âm kiểu
Giao tín
Dương kiểu
Phụ dương
Tỳ
Địa cơ
Can
Trung đô
Thận
Thủy tuyền
Vị
Lương khâu
Đởm
Ngoại khâu
Bàng quang
Kim môn
Âm duy
Trúc tân
Dương duy
Dương giao
Chọn huyệt đặc hiệu
Đây là những huyệt được tổng kết bằng lý luận và bằng kinh nghiệm điều trị. Trong châm cứu, có rất nhiều các huyệt đặc hiệu (nhóm tứ đại huyệt, lục tổng huyệt, bát hội huyệt, giao hội huyệt ...).
Bát mạch giao hội huyệt là huyệt giao hội của 8 mạch. Tất cả từng cặp đều nằm tương đối cân xứng ở tay và chân. Đặc tính của bát mạch giao hội huyệt là dùng để trị bệnh của 8 mạch cũng như hỗ trợ điều trị bệnh kinh chính.
Bảng: Bát mạch giao hội huyệt:
Giao hội huyệt
Chiếu hải
Liệt khuyết
Lâm khấp
Ngoại quan
Kinh
Thận
Phế
Đởm
Tam tiêu
Mạch
Âm kiểu
Nhâm
Đới
Dương duy

Giao hội huyệt
Hậu khê
Thân mạch
Công tôn
Nội quan
Kinh
Tiểu trường
Bàng quang
Tỳ
Tâm bào
Mạch
Đốc
Dương kiểu
Xung
Âm duy
Bát hội huyệt là 8 huyệt dùng để chữa bệnh cho 8 loại tổ chức trong cơ thể (tạng, phủ, khí, huyết, gân, xương, tủy, mạch). Do đó, khi một loại tổ chức nào đó trong cơ thể có bệnh, có thể sử dụng hội huyệt tương ứng mà chữa. 
Bảng: Bát hội huyệt.
Bát hội huyệt
Hội của phủ
Hội của tạng
Hội của khí
Hội của huyết
Hội của cốt
Hội của tủy
Hội của gân
Hội của mạch
Tên huyệt
Trung quản
Chương môn
Đản trung
Cách du
Đại trữ
Tuyệt cốt
Dương lăng
Thái uyên
Lục tổng huyệt là 6 huyệt dùng để điều trị bệnh cho 6 vùng cơ thể khác nhau. Sự xuất hiện của 6 huyệt trên có nguồn gốc từ 4 đại huyệt (Hợp cốc, Ủy trung, Liệt khuyết, Túc tam lý) Chu quyền trong càn khôn sanh lý Châm cứu đại thành. Sau được bổ sung dần thêm 2 huyệt là Nội quan và Tam âm giao mà thành. Toàn bài ca của lục tổng huyệt “Đổ phúc Tam lý lưu, Yêu bối ủy trung cầu, Đầu hạng tầm liệt khuyết. Diện khẩu hợp cốc thâu, Tâm hung thủ nội quan, Tiểu phúc tam âm mưu”.
Hợp cốc: Chữa vùng đầu, mặt, miệng, răng.
Liệt khuyết: Chữa vùng cổ gáy.
Ủy trung: Chữa vùng lưng, thắt lưng.
Tam âm giao: Chữa bệnh lý vùng bụng dưới tiết niệu, sinh dục.
Nội quan: Chữa bệnh vùng ngực.
Túc tam lý: Chữa vùng bụng trên, bụng giữa.


Read more: http://www.dieutri.vn/chamcuucotruyen/12-8-2013/S4355/Nguyen-tac-chon-huyet-cham-cuu.htm#ixzz2mKZHZDxr